1. MỞ ĐẦU

Hầu hết các bác sĩ phụ khoa đều phải tư vấn cho các cặp vợ chồng về việc làm sao cho dễ có thai. Các chương trình đào tạo đại học và sau đại học về Sản Phụ khoa, trong một thời gian dài, chú trọng vào các kiến thức liên quan đến han chế sinh sản và ngừa thai. Thông tin y khoa và tài liệu chuyên ngành chính thống về sinh lý sinh sản và tối ưu khả năng sinh sản người gần như không có. Rất ít thông tin chính thống, đáng tin cây về vấn đề này được thông tin và xem xét dưới quan điểm khoa học và giảng dạy đầy đủ. Điều này làm cho người dân và đa số nhân viên y tế cơ sở thiếu kiến thức và thiếu thông tin tham khảo, chủ yếu dựa vào thông tin truyền miệng từ người này sang người khác hay sao chép từ các nguồn không chính thống trên mạng xã hội.

Những hiểu biết sai và thông tin không chính thống, thiếu khoa học về sinh lý sinh sản người dẫn đến các tư vấn và hướng dẫn không đúng, thậm chí làm giảm khả năng sinh sản của các cặp vợ chồng. Một số sự tưởng tượng hoặc hiểu sai thậm chí làm chậm và mất cơ hội có thai của những cặp vợ chồng lớn tuổi.

Bài viết này mục đích nhìn lại các biện pháp làm tăng cơ hội có thai tự nhiên theo kiến thức sinh lý sinh sản người hiện nay, trên quan điểm y học thực chứng. Nội dung bài chủ yếu dựa trên thông tin từ Khuyến cáo của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) về “Tối ưu khả năng có thai tự nhiên”, công bố đầu năm 2017 trên tạp chí uy tín của Mỹ về sinh sản Fertility and Sterility, đồng thời kết hợp các kiến thức và bằng chứng từ các nghiên cứu đã được công bố khác có liên quan.

Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM)

2. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH SẢN NGƯỜI

Sau khi tinh dịch được phóng vào âm đạo, chỉ một số ít tinh trùng di động có thể đến được cổ tử cung và đi vào cổ tử cung. Không phải tất cả tinh trùng di động đều đi lên tử cung, vòi trứng và gặp noãn cùng lúc. Cấu trúc thành cổ tử cung có nhiều khe nhỏ, một số tác giả cho rằng tinh trùng có thể trú ngụ ở đó trong vòng nhiều giờ và tiếp tục bơi lên tử cung sau đó.

Rất ít tinh trùng đi vào được vòi trứng cùng thời điểm và thường không phải vào thời điểm rụng trứng. Do cần phải có nhiều tinh trùng để có thể thụ tinh một noãn, việc tập trung được nhiều tinh trùng trong vòi trứng là một đặc điềm sinh lý quan trọng để tối ưu hoá quá trình thụ tinh giữa tinh trùng và noãn ở người. Có thể có nhiều lần giao hợp trong một chu kỳ. Vòi trứng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút, tập trung, nuôi dưỡng tinh trùng và chuẩn bị sẵn tinh trùng trong vòi trứng, cho đến thời điểm thụ tinh, khi noãn đi vào vòi trứng. Tinh trùng có thể bám vào niêm mạc vòi trứng sống được lâu hơn, khả năng thụ tinh được chuẩn bị tốt hơn (Suarez và Pacey, 2006).

Tinh trùng sau khi xuất tinh vào đường sinh dục nữ, khả năng sống và thụ tinh noãn có thể kéo dài từ 3-5 ngày. Trong khi đó, sau khi phóng noãn, noãn thụ tinh tốt nhất là vài giờ sau phóng noãn. Khả năng thụ tinh của noãn không còn hoặc giảm rất nhiều 12 giờ sau phóng noãn.

Sau khi xuất tinh, tinh trùng có khả năng sống và thụ tinh trong vòng 3-5 ngày. Ngược lại, noãn chỉ thụ tinh tốt trong vòng 12 giờ sau phóng noãn, nếu thụ tinh sau 24 giờ phóng noãn làm tăng tỷ lệ sẩy thai sau đó.

Như vậy, tóm lại trong sinh lý tự nhiên, tinh trùng sẽ đi đến vòi trứng từ từ, nhiều đợt. Vòi trứng có tác dụng thu hút, tập trung, nuôi dưỡng, chuẩn bị một số lượng nhiều tinh trùng bên trong vòi trứng, chờ đến khi phóng noãn. Sau hiện tượng phóng noãn, noãn được đưa vào vòi trứng, nơi đã có nhiều tinh trùng được chuẩn bị sẵn sàng. Trong điều kiện đó, hiện tượng thụ tinh có cơ hội xảy ra nhiều nhất và thời điểm thụ tinh phù hợp nhất.

Các đặc điểm sinh lý trên cho thấy, để tối ưu cơ hội thụ tinh giữa tinh trùng và noãn, các cặp vợ chồng cần giao hợp nhiều lần, từ vài ngày trước khi phóng noãn xảy ra.

3. KHẢ NĂNG CÓ THAI TỰ NHIÊN CỦA MỘT CẶP VỢ CHỒNG

Trung bình, cơ hội có thai mỗi tháng của một cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản vào khoảng 20-25%. Nếu có thể có thai tự nhiên, 80% các cặp vợ chồng sẽ có thai trong 6 tháng đầu tiên giao hợp thường xuyên. Trong đó, 3 tháng đầu là thời gian có xác xuất có thai cao nhất. Hơn 90% các cặp vợ chồng sẽ có thai trong 12 tháng đầu. Nếu không có thai được trong 12 tháng đầu, trong 12 tháng tiếp sau đó, chỉ có hơn 5% các cặp vợ chồng còn lại có thể có thai tự nhiên. (Gnoth và cs, 2003).

Hơn 90% các cặp vợ chồng có thai sau 1 năm thả tự nhiên

Dựa vào các dữ liệu này, người ta đồng thuận chẩn đoán hiếm muộn là 12 tháng sau giao hợp thường xuyên, bởi vì nếu tiếp tục để có thai tự nhiên sau 12 tháng cố gắng, cơ hội có thai tự nhiên còn lại là rất thấp. Sau 12 tháng giao hợp thường xuyên, không có thai tự nhiên, các cặp vợ chồng nên đi khám và tư vấn. Việc điều trị nên bắt đầu sớm dù chưa tìm được nguyên nhân rõ ràng (ASRM, 2013).

4. TUỔI VÀ KHẢ NĂNG SINH SẢN

Nhiều bác sĩ cho rằng khả năng có thai của phụ nữ phụ thuộc vào chu kỳ kinh đều và siêu âm thấy nang trên buồng trứng, cho dù phụ nữ ở độ tuổi nào. Việc này hoàn toàn sai với chứng cứ khoa học hiện có. Khả năng sinh sản của phụ nữ giảm nhiều khi lớn tuổi, dù chu kỳ kinh vẫn còn đều.

Khả năng có thai của phụ nữ tốt nhất từ vài năm sau dậy thì cho đến 30 tuổi. Sau 35 tuổi, khả năng này giảm bắt đầu giảm nhanh, rõ rệt. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo, nếu người vợ trên 35 tuổi, giao hợp tự nhiên sau 6 tháng chưa có thai, cặp vợ chồng nên đi khám và tư vấn biện pháp điều trị.

Phụ nữ lớn tuổi có khả năng sinh sản giảm chủ yếu do giảm dự trữ buồng trứng theo tuổi, đồng thời chất lượng noãn cũng giảm đáng kế khi lớn tuổi. Ở tuổi trên 40, số lượng noãn trên 2 buồng trứng còn ít và trên 90% noãn bị bất thường, cho dù chu kỳ kinh vẫn còn được duy trì đều đặn trong vài năm nữa. (ASRM, 2017)

Các nghiên cứu ghi nhận, các chỉ số tinh trùng ở nam giới bắt đầu giảm sau 35 tuổi, tuy nhiên khả năng sinh sản nam giới chỉ giảm rõ từ khoảng 50 tuổi trở đi.

Cần tư vấn về thay đổi sinh lý sinh sản quan trọng này cho cặp vợ chồng lập gia đình trễ hay mong con trễ, khi đã lớn tuổi. Nên có con khi phụ nữ trước 30 tuổi và điều trị có con sớm nếu phụ nữ đã trên 35 tuổi.

5. TẦN XUẤT GIAO HỢP ĐỂ DỄ CÓ THAI

Một quan niệm sai lầm khá phổ biến là khả năng có thai của nam giới sẽ giảm nếu xuất tinh thường xuyên. Thực tế là ngược lại, các chứng cứ cho thấy nếu kiêng xuất tinh trên 5 ngày, chất lượng tinh trùng sẽ suy giảm. Xuất tinh thường xuyên cách ngày đủ để duy trì số lượng và chất lượng tinh trùng ổn định. Các nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn cho thấy số lượng và chất lượng tinh trùng vẫn duy trì ổn định, dù xuất tinh mỗi ngày. Ngay cả với những trường hợp tinh trùng ít, yếu, dị dạng, việc xuất tinh thường xuyên mỗi ngày có thể giúp cải thiện các chỉ số tinh trùng.

Nghiên cứu cho thấy ở những cặp vợ chồng có thai tự nhiên bình thường, khả năng có thai cao nhất khi giao hợp mỗi ngày hoặc cách ngày, 37% và và 33%. Trong khi đó, khả năng có thai trong tháng của các cặp vợ chồng giảm còn 15% nếu chỉ giao hợp 1 lần mỗi tuần. Nên tư vấn các cặp vợ chồng giao hợp thường xuyên mỗi ngày hoặc cách ngày để có cơ hội có thai tốt nhất (ASRM, 2017).

6. CỬA SỔ THỤ THAI

Cửa sổ thụ thai (fertile window) được định nghĩa là khoảng thời gian trong tháng mà khi giao hợp trong những ngày đó, khả năng có thai là cao nhất. Theo các chứng cứ hiện có, khoảng thời gian này kéo dài 6 ngày liên tục gồm 5 ngày trước ngày phóng noãn và ngày phóng noãn. Giao hợp 1 ngày sau phóng noãn, khả năng có thai còn rất thấp hoặc không còn. Các dữ liệu còn cho thấy giao hợp trong khoảng thời gian 3 ngày, bao gồm 2 ngày trước phóng noãn và ngày phóng noãn là có khả năng thụ thai cao nhất. Số liệu nghiên cứu cũng cho thấy, khả năng có thai trong tháng cao nhất nếu càng giao hợp được nhiều lần trong giai đoạn cửa sổ thụ thai.

Một quan niệm sai lầm trước nay được lan truyền cần được loại bỏ: kiêng giao hợp cho đến khi phát hiện phóng noãn, sau đó mới giao hợp. Cách hướng dẫn này rõ ràng làm giảm cơ hội có thai của các cặp vợ chồng do làm giảm chất lượng tinh trùng do kiêng giao hợp lâu ngày và bỏ qua giai đoạn cửa sổ thụ thai của phụ nữ.

Hình 1 minh họa cửa sổ thụ thai từ ngày -5 (5 ngày trước phóng) đến ngày 0 (ngày phóng noãn) và cơ hội có thai tương ứng khi giao hợp vào từng ngày đó, với người vợ trẻ tuổi và người vợ lớn tuổi.

Trong các biện pháp dự đoán ngày phóng noãn, biện pháp theo dõi chất nhầy cổ tử cung được xem là biện pháp chính xác và hữu hiệu nhất để tăng khả năng có thai tự nhiên (Ecochard et al., 2015). Các nghiên cứu cho thấy, khi thấy chất nhầy nhiều, trong dai, hiện tượng phóng noãn thường xảy ra sau đó khoảng 2 ngày. Trong khi đó, khoảng thời gian giao hợp dễ có thai được ghi nhận là 3 ngày tính từ ngày phóng noãn trở về trước. Do đó, nên khuyên các cặp vợ chồng giao hợp thường xuyên khi bắt đầu thấy chất nhầy trong, dai xuất hiện nhiều, hoặc trước đó 2-3 ngày và tiếp tục 2-3 ngày sau khi chất nhầy cổ tử cung nhiều. (ASRM, 2017)

Nếu phụ nữ có chu kỳ kinh đều khoảng 28 ngày, cửa sổ thụ thai sẽ là từ ngày 9 đến ngày 14 của chu kỳ. Nếu phụ nữ có chu kỳ kinh đều khoảng 30 ngày, cửa sổ thụ thai sẽ là từ ngày 11 đến 16 của chu kỳ. Hai vợ chồng nên giao hợp thường xuyên trong những ngày này, đặc biệt là những ngày ở khoảng giữa cửa sổ thụ thai (hình 1).

7. XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM PHÓNG NOÃN

Xác định ngày phóng noãn thật ra chỉ mang giá trị tham khảo hoặc để tìm hiểu về khả năng phóng noãn, không giúp tăng cơ hội có thai trong chu kỳ theo dõi. Siêu âm thường phát hiện phóng noãn sau khi phóng noãn đã xảy ra. Khả năng thụ thai nếu giao hợp sau khi phóng noãn là rất thấp. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm là giao hợp vào ngày phóng noãn sẽ khả năng có thai cao nhất, điều đó dẫn đến việc phát triển một kiểu điều trị hiếm muộn không giống ai trên thế giới là siêu âm canh ngày phóng noãn, sau đó giao hợp để dễ có thai.

Việc siêu âm theo dõi nang noãn trong chu kỳ tự nhiên và theo dõi hiện tượng phóng noãn, chủ yếu có ý nghĩa chẩn đoán hiện tượng phóng noãn hơn là giúp tăng cơ hội có thai. Một số đồng nghiệp khuyên các cặp vợ chồng kiêng giao hợp và siêu âm theo dõi nang noãn cho đến ngày phóng noãn và giao hợp. Đây là một thực hành rất sai, làm giảm cơ hội có thai tự nhiên của các cặp vợ chồng. Tinh trùng kiêng xuất tinh lâu ngày sẽ bị thoái hóa, tỷ lệ thụ tinh noãn giảm. Đồng thời giao hợp vào ngày rụng trứng hay sau đó, thì cơ hội thụ thai đã giảm nhiều hoặc không còn.

Rất nhiều đồng nghiệp và các cặp vợ chồng tin rằng, giao hợp ngay sau thời điểm phóng noãn sẽ có cơ hội có thai bé trai nhiều hơn. Điều này đã được được chứng minh là sai bằng nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu nổi tiếng nhất, công bố trên tạp chí nổi tiếng NEJM từ năm 1995 cho thấy có không có mối liên hệ nào giữa thời điểm giao hợp và giới tính thai nhi (Wilcox và cs, 1995). Đồng thời nghiên cứu này cũng cho thấy, nếu thời điểm giao hợp duy nhất trong tháng trễ hơn thời điểm ước tính rụng trứng, tỉ lệ sẩy thai có khuynh hướng tăng so với việc giao hợp ở thời điểm trước rụng trứng vài ngày. Điều này được giải thích là nếu giao hợp trễ vào ngày phóng noãn hay sau ngày phóng noãn, thì đến thời điểm số lượng tinh trùng đến vòi trứng đầy đủ dể có thể thụ tinh noãn, chất lượng noãn đã bị giảm, noãn đã bắt đầu thoái hóa.

Tỷ lệ giới tính nam/nữ không thay đổi dù “canh” ngày quan hệ

Trong các biện pháp dự đoán ngày phóng noãn, biện pháp theo dõi chất nhầy cổ tử cung được xem là biện pháp chính xác và hữu hiệu nhất (Ecochard và cs, 2015). Biện pháp thử LH nước tiểu và đo thân nhiệt là những biện pháp kém chính xác và ít hiệu quả nhất. Hầu hết các nghiên cứu đều khuyến cáo nên sử dụng biểu hiện chất tiết chất nhầy cổ tử cung để dự đoán ngày phóng noãn. Đây là biện pháp chính xác nhất, đơn giản nhất và ít tốn kém nhất cho các cặp vợ chồng.

Tỷ lệ sẩy lưu thai cao hơn nếu quan hệ vào đúng ngày rụng trứng

8. TƯ THẾ GIAO HỢP VÀ SAU GIAO HỢP

Kê gối dưới mông sau quan hệ có giúp dễ có thai hơn không ?

Tư thế giao hợp hay thời gian nằm nghỉ sau giao hợp đều không ảnh hưởng đến khả năng có thai. Một số ít tinh trùng người có thể được tìm thấy ở vòi trứng bên buồng trứng phóng noãn sau 10-15 phút sau giao hợp. Điều này được cho là do sự co thắt có định hướng của cơ hệ thống sinh dục nữ.

Treo cao chân sau quan hệ có giúp dễ có thai hơn không ?

Sau khi xuất tinh, tinh dịch ly giải, môi trường pH âm đạo được cân bằng, các tinh trùng di động gần cổ tử cung sẽ tiếp xúc và đi vào cổ tử cung. Các tư thế giao hợp hay vận động sau giao hợp cũng sẽ ít ảnh hưởng đến hiện tượng di chuyển của tinh trùng và khả năng có thai. (ASRM, 2017)

9. KẾT LUẬN

  1. Tuổi có thai tốt nhất của phụ nữ là dưới 30 tuổi. Sau 30 tuổi, khả năng có thai giảm dần.
  2. Cửa sổ thụ thai, là khoảng thời gian hai vợ chồng giao hợp để dễ có thai nhất, kéo dài khoảng 6 ngày, từ ngày 5 trước phóng noãn cho đến ngày phóng noãn. Thời điểm giao hợp dễ có thai nhất là khoảng 1-2 ngày trước phóng noãn.
  3. Tần suất giao hợp để dễ có chất lượng tinh trùng tốt nhất và khả năng có thai cao nhất là giao hợp mỗi ngày hoặc cách ngày.
  4. Các dự đoán ngày rụng trứng tốt nhất là dựa vào sự thay đổi của chất nhày cổ tử cung. Phóng noãn thường xảy ra khoảng 2 ngày sau khi chất nhầy cổ tử cung nhiều, trong dai nhất. Nếu chu kỳ kinh đều, có thể tính theo ngày kinh.
  5. Các tư thế giao hợp hay thời gian nằm nghỉ sau giao hợp không ảnh hưởng đến khả năng có thai.
  6. Nếu giao hợp thường xuyên, đúng cách, sau 12 tháng, mà vẫn chưa có thai, nên đi khám bác sĩ chuyên khoa và điều trị; nếu người vợ trên 35 tuổi, 6 tháng, nên khi đi khám và điều trị.

Tham khảo nguồn BS. HỒ MẠNH TƯỜNGHOSREM
Y HỌC SINH SẢN, SỐ 44.

10. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. ASRM (2017) Fertility and Sterility 107(1): 52-58.
  2. ASRM (2013) Fertil Steril 99(1):63-68.
  3. Ecochard et al (2015) Fertility and Sterility 103(5): 1319-1325.
  4. Wilcox et al (1995) NEJM 333(23): 1517-1521.
  5. Gnoth, et al (2003) Human Reproduction 18(9):1959-1966.

11. TÓM LƯỢC BÀI VIẾT

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *